Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 11, 2017

Co giật động kinh và nhận diện co giật động kinh điện não

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/43411 Động kinh là một chứng bệnh hệ thần kinh do xáo trộn lặp đi lặp lại của một số nơron trong vỏ não tạo nhiều triệu chứng rối loạn hệ thần kinh (các cơn động kinh) như co giật của bắp thịt, cắn lưỡi, sùi bọt mép, mắt trợn ngược, bất tỉnh, mất kiểm soát tiểu tiện, hoặc gây cảm giác lạ. Cơn động kinh bao gồm các triệu chứng có thể thay đổi từ rất ngắn gọn và gần như không thể phát hiện đến các cơn động kinh thời gian dài với chấn động mạnh mẽ. Trong động kinh, co giật có xu hướng tái phát, và không có nguyên nhân tiềm ẩn ngay lập tức trong khi cơn co giật xảy ra do một nguyên nhân cụ thể không được coi là triệu chứng của bệnh động kinh. Các nguyên nhân của hầu hết các trường hợp động kinh chưa được biết rõ, mặc dù một số người coi bệnh động kinh như là kết quả của chấn thương não, đột quỵ, u não, và rối loạn sử dụng chất. Đột biến sinh học có liên quan đến một tỷ lệ nhỏ của bệnh này. Động kinh là kết quả của hoạt động tế bào

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong việc

Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây kinh giới ở Việt Nam

  http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17735 Kinh giới, kinh giới rìa hay kinh giới trồng (tên khoa học: Elsholtzia cristata) là loài cây thảo thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae), là một loại rau thơm và cây thuốc. Kinh giới có thân vuông, mọc thẳng, cao khoảng 30 – 50 cm. Hoa nhỏ, màu tím nhạt, mọc thành bông ở đầu cành. Cây chứa tinh dầu có vị cay, đắng, mùi thơm. Kinh giới mọc ở khu vực đồi núi, đất bỏ hoang, với địa hình nhiều nắng, bờ sông suối hay trong rừng; ở cao độ 0-3.400 m. Có tại Ấn Độ, Campuchia, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Myanma, Nga, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc (ngoại trừ các tỉnh Thanh Hải và Tân Cương), Việt Nam. Nó cũng được du nhập vào châu Âu và Bắc Mỹ. Tại Việt Nam, kinh giới được trồng ở nhiều nơi, thường được ăn sống. Kinh giới vừa là rau gia vị vừa là cây dùng làm thuốc chữa bệnh (lấy cả cây trừ rễ). Khi cây kinh giới bắt đầu nở hoa, nhổ cả cây, cắt bỏ rễ, đem phơi hoặc sấy khô. Mời các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn “Nghi

Single camera based fall detection using motion and human shape features

     http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/33870           Fall detection is important for safety for old people or patients living alone. This paper proposes a framework for indoor fall detection using single camera system. Falls are detected based on the analysis of motion orientation, motion magnitude, and human shape changes.        With a deep analysis of characteristics of fall events, we propose improvements for motion orientation estimation, large motion detection and human shape detection using motion histogram images (MHI).            Fall detection is then determined by analyzing the speed of changing in motion magnitude, motion orientation and human shape before, during and after the fall.        Experiments have been conducted on public datasets Li2e having 221 videos of different living environments with various daily activities. The experimental results show high detection accuracies and very fast processing capability. Description:  ACM Internati

Trọng lực học

  http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18636 Trọng lực học là khoa học về trường trọng lực của Trái Đất và tương tác của nó với các vật thể ở bên trong, trên bề mặt và bên ngoài Trái Đất. Thành phần chủ yếu của trường trọng lực là lực hút còn gọi là lực hấp dẫn. Lực hấp dẫn là đặc tính của Trái Đất và mọi vật thể trong tự nhiên, được biểu thị bằng định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Trọng lực là lực tổng hợp giữa lực hút của Trái Đất, lực ly tâm và lực hút từ các thiên thể như Mặt Trăng, Mặt Trời v.v… tác động lên vật thể ở mọi điểm bên trong, trên mặt và ở bên ngoài Trái Đất tạo thành trường trọng lực của Trái Đất. Mọi vật thể trong trường trọng lực của Trái Đất đều ở trạng thái rơi tự do hướng về phía Trái Đất.  Nhà bác học Italia Galileo là người đầu tiên phát minh ra định luật rơi tự do của các vật rắn và năm 1638 đã đề ra phương pháp xác định gia tốc trọng lực, mở đầu cho sự nghiên cứu về trường trọng lực của Trái Đất và ứng dụng của nó trong những thế kỷ tiếp th

Sự thay đổi tôn giáo và bản sắc của người H'Mông ở Việt Nam

  http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/24333 Người H'Mông (RPA: Hmoob/Moob; phát âm: m̥ɔ̃ŋ hay Mông), là một nhóm dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á là Lào, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar. Người H'Mông nói tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. Tiếng H'Mông vốn chưa có chữ viết, hiện dùng phổ biến là chữ Hmông Latin hóa (RPA) được lập từ năm 1953 Với số dân hơn 80 vạn người- đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc và cư trú ở vùng núi cao phía Bắc và phía Tây, người Hmông có nền văn hoá rất phong phú, giàu bản sắc và có truyền thống từ lâu đời. Dân tộc Hmông phân bố khắp trên các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An và số ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người Hmông di cư vào sinh

The hit problem for the Dickson algebra

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/32051   In mathematics, the Cayley–Dickson construction, named after Arthur Cayley and Leonard Eugene Dickson, produces a sequence of algebras over the field of real numbers, each with twice the dimension of the previous one. The algebras produced by this process are known as Cayley–Dickson algebras. They are useful composition algebras frequently applied in mathematical physics. The Cayley–Dickson construction defines a new algebra similar to the direct sum of an algebra with itself, with multiplication defined in a specific way (different from the multiplication provided by the genuine direct sum) and an involution known as conjugation. The product of an element and its conjugate (or sometimes the square root of this product) is called the norm. The symmetries of the real field disappear as the Cayley–Dickson construction is repeatedly applied: first losing order, then commutativity of multiplication, associativity of mult

Người Hoa Hẹ (HAKKA) ở Việt Nam

  http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/24347 Khách Gia, hay Hakka, còn gọi là người Hẹ, (chữ Hán: 客家 ; bính âm: kèjiā; nghĩa đen là "các gia đình người khách") là một tộc người Hán có tổ tiên được cho là gốc gác ở khu vực các tỉnh Hà Nam và Sơn Tây ở miền bắc Trung Quốc cách đây 2700 năm. Họ đã di cư xuống phía nam vì bất ổn, loạn lạc và sự xâm lấn ngoại bang từ thời nhà Tấn (265-420). Những cuộc di cư tiếp theo diễn ra vào cuối thời nhà Đường khi Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy, vào giữa thời nhà Tống, rồi làn sóng người tị nạn tràn xuống phía nam khi người Nữ Chân chiếm được kinh đô Tống, sau đó là khi nhà Tống bị người Mông Cổ tiêu diệt, rồi khi nhà Minh bị sụp đổ bởi bàn tay người Mãn Châu, tộc người đã tạo lập nên nhà Thanh. Người Khách Gia đã tham gia tích cực vào cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo. Hiện nay người Khách Gia tập trung ở các vùng miền Nam Trung Quốc như tỉnh Quảng Đông, tây Phúc Kiến, Giang Tây, nam Hồ Nam,

A new species of Gracixalus (Amphibia: Anura: Rhacophoridae) from northern Vietnam

Gracixalus is a genus of shrub frogs (family Rhacophoridae ) from southeastern Asia. There are 11 species in this genus http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/32576 Title: A new species of Gracixalus (Amphibia: Anura: Rhacophoridae) from northern Vietnam Authors:  Nguyen, Quang Truong Le, Minh Duc Pham, The Cuong Keywords:  Treefrog Taxonomy Phylogeny Cao Bang Province Ha Lang forest Issue Date:  2013 Publisher:  SPRINGER HEIDELBERG, TIERGARTENSTRASSE 17, D-69121 HEIDELBERG, GERMANY Citation:  ISIKNOWLEDGE Abstract:  We describe a new species of small tree frog from northern Vietnam based on morphological differences and molecular divergence.Gracixalus wazasp. nov. is distin-guishable from its congeners and other small rhacophorid species on the basis of a combination of the following characters: (1) size small (snout-vent length of males 27.1– 32.9 mm, of females 37.6 mm); (2) head as wide as or wider than long; (3) vomerine teeth absent; (4) snout rounded

Mối quan hệ giữa đạo Cao Đài và văn hóa Nam Bộ

Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời.        Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là Nền đạo lớn phổ độ lần thứ Ba. Cao Đài là một tôn giáo mới, có tính dung hợp các tôn giáo lớn mà chủ yếu là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo. Các tín đồ thi hành những giáo điều của Đạo như không sát sinh, sống

Trầm tích muối

  http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19123 Muối là loại đá trầm tích hoá học thuần tuý, gồm những khoáng vật có độ hoà tan lớn nhất. Chúng được lắng đọng từ dung dịch thật quá bão hoà, do kết quả của khí hậu khô nóng, nhiệt độ tăng cao lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng nước mưa cung cấp.  Các loại muối được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Thạch cao và anhydrit được sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng). Trong công nghiệp hoá học, luyện kim, giấy, làm mô hình, phấn viết... Ngoài việc được sử dụng trong đời sống của con người, các loại muối clorua còn là những nguyên liệu quan trọng trong công nghịêp hoá học để sản xuất BaOH, Cl, Na, Mg.  Loại muối sunfat Na được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thuỷ tinh, hoá học. Các loại muối K và Mg được sử dụng trong công nghiệp làm phân bón. Title:  Trầm tích muối Authors:  Trần, Nghi Keywords:  Trầm tích clorua (haloit) Trầm tích sunfat Issue Date:  2017 Publisher:  H. : ĐHQGHN Abst

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có

Hợp đồng lao động vô hiệu theo Pháp luật Việt Nam

Hợp đồng lao động vô hiệu theo Pháp luật Việt Nam http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23618 Hiện nay, Bộ Luật lao động quy định rất cụ thể về việc hợp đồng lao động vô hiệu, đây là cơ sở để các bên xem xét khi có xảy ra tranh chấp. Hợp đồng lao động vô hiệu 1. Hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động trái pháp luật; b) Người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền; c) Công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm; d) Nội dung của hợp đồng lao động hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động. 2. Hợp đồng lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng. 3. Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn quy định trong pháp luật v

Behavioral and quality-of-life outcomes in different service models for methadone maintenance treatment in Vietnam

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/11456 Background: Integrating HIV/AIDS and methadone maintenance treatment (MMT) services with existing health care delivery system is critical in sustaining efforts to fight HIV/AIDS in large injection-driven epidemics.  However, efficiency of different integrative service models is unknown.  This study assessed behavioral and health-related quality-of-life (HRQOL) outcomes of MMT in four service delivery models and explored factors associated with these outcomes of interest.  Methods: A cross-sectional survey was conducted in two HIV epicenters in Vietnam: Hanoi and Nam Dinh Province. All patients in five selected MMT clinics were invited to participate, and 1016 were interviewed (80–90 % response rate).  Results: Respondents had a mean age of 35.8, taken MMT for average 16.5 months and 3.3 % on MMT for 36–60 months.  The MMT integrated with rural district health center (DHC) has the highest prevalence of concurrent