Chuyển đến nội dung chính

Behavioral and quality-of-life outcomes in different service models for methadone maintenance treatment in Vietnam

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/11456
Background:
Integrating HIV/AIDS and methadone maintenance treatment (MMT) services with existing health care delivery system is critical in sustaining efforts to fight HIV/AIDS in large injection-driven epidemics. 
However, efficiency of different integrative service models is unknown. 



This study assessed behavioral and health-related quality-of-life (HRQOL) outcomes of MMT in four service delivery models and explored factors associated with these outcomes of interest. 
Methods:
A cross-sectional survey was conducted in two HIV epicenters in Vietnam: Hanoi and Nam Dinh Province. All patients in five selected MMT clinics were invited to participate, and 1016 were interviewed (80–90 % response rate). 
Results:
Respondents had a mean age of 35.8, taken MMT for average 16.5 months and 3.3 % on MMT for 36–60 months. 
The MMT integrated with rural district health center (DHC) has the highest prevalence of concurrent drug use (11.3 %). 
The percentage of condom use (last sexual intercourse) with primary and casual partners was lowest in the MMT at urban DHCs. 
Patients at the rural DHC reported very high proportions of pain/discomfort (37.8 %), anxiety/depression (43.1 %), and mobility (13.3 %). 
In regression models, poorer HRQOL outcomes were found in MMT models in the rural areas or without general health care, and among those patients who were HIV positive, reported concurrent drug use, and had higher numbers of previous drug rehabilitation episodes. 
Mobility and anxiety/ depression are factors that increased the likelihood of concurrent drug use among MMT patients. 
Conclusions:Outcomes of MMT were diverse across different integrative service models. 
Policies on rapid expansion of the MMT program in Vietnam should also emphasize on the integration with comprehensive health care services including psychological supports for patients


Title: Behavioral and quality-of-life outcomes in different service models for methadone maintenance treatment in Vietnam
Authors: Nguyen, Hoang Long
Issue Date: 2016
Publisher: BioMed Central
Abstract: Background:Integrating HIV/AIDS and methadone maintenance treatment (MMT) services with existing health care delivery system is critical in sustaining efforts to fight HIV/AIDS in large injection-driven epidemics. However, efficiency of different integrative service models is unknown. This study assessed behavioral and health-related quality-of-life (HRQOL) outcomes of MMT in four service delivery models and explored factors associated with these outcomes of interest. Methods:A cross-sectional survey was conducted in two HIV epicenters in Vietnam: Hanoi and Nam Dinh Province. All patients in five selected MMT clinics were invited to participate, and 1016 were interviewed (80–90 % response rate). Results:Respondents had a mean age of 35.8, taken MMT for average 16.5 months and 3.3 % on MMT for 36–60 months. The MMT integrated with rural district health center (DHC) has the highest prevalence of concurrent drug use (11.3 %). The percentage of condom use (last sexual intercourse) with primary and casual partners was lowest in the MMT at urban DHCs. Patients at the rural DHC reported very high proportions of pain/discomfort (37.8 %), anxiety/depression (43.1 %), and mobility (13.3 %). In regression models, poorer HRQOL outcomes were found in MMT models in the rural areas or without general health care, and among those patients who were HIV positive, reported concurrent drug use, and had higher numbers of previous drug rehabilitation episodes. Mobility and anxiety/ depression are factors that increased the likelihood of concurrent drug use among MMT patients. Conclusions:Outcomes of MMT were diverse across different integrative service models. Policies on rapid expansion of the MMT program in Vietnam should also emphasize on the integration with comprehensive health care services including psychological supports for patients
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/11456
ISSN: 1472-6963
Appears in Collections:SMP - Papers / Tham luận HN-HT

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay

Giới thiệu luận văn “Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay” Tác giả: Nguyễn Thị Huyền Chinh http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23593 Việc báo chí và truyền thông đại chúng (TTĐC) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống của học sinh – sinh viên nói riêng và giới trẻ nói chung không phải là vấn đề lạ lẫm. Trên thế giới cũng đã có rất nhiều tài liệu đề cập đến sự ảnh hưởng của TTĐC đến hành vi của trẻ em, đến giới trẻ. Tại Việt Nam, với sự ra đời của 105 báo, tạp chí điện tử đã tạo ra môi trường thông tin rộng lớn và đa dạng đối với giới trẻ. Không chỉ đóng vai trò là nơi cung cấp thông tin hữu ích, báo điện tử tại Việt Nam còn đóng vai trò định hướng dư luận xã hội, định hướng nhận thức, hành vi và lối sống cho giới trẻ. Tuy nhiên, báo điện tử vẫn chưa thực sự làm tốt vai trò của mình. Do sức ép từ doanh thu, một số báo điện tử đã “bất chấp” đưa ra những thông tin thiếu trung thực, rẻ tiền, xoáy quá sâu...

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...