Chuyển đến nội dung chính

Từ phạm trù "nhân" của Nho giáo đến phạm trù "nhân" trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh




Bài viết: Từ phạm trù "nhân" của Nho giáo đến phạm trù "nhân" trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tác giả: Phan Mạnh Toàn
Tóm tắt: Bài viết phân tích “Nhân”của Nho giáo và “Nhân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Theo tác giả, trong Nho giáo Trung Quốc sơ kỳ, nhân được hiểu là yêu thương con người, là đạo làm người mà cốt lõi là trung - thứ, là một phẩm chất của người quân tử. Trong Nho giáo Việt Nam, ngoài những nội dung trên, nhân còn là yêu nước, thương dân; là khoan dung độ lượng, là yêu chuộng hòa bình. Quan niệmcủa Hồ Chí Minh về nhân không hoàn toàn giống quan niệm của Nho giáo về nhân. Đối với Hồ Chí Minh, nhân còn là tình yêu thương đối với Tổ quốc, đồng bào, nhân loại cần lao, là sự đấu tranh xóa bỏ áp bức và bất công, giải phóng con người
Ở Việt Nam, tình thương và lòng nhân ái của nhân dân ta trước hết là sản phẩm tất yếu của lịch sử xã hội Việt Nam, được nảy sinh từ thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Nho giáo và Phật giáo tồn tại và từng giữ vị trí chi phối trong một thời gian dài trong lịch sử nước ta, nên có ảnh hưởng đến tình cảm đạo đức của nhân dân ta là điều không tránh khỏi. Nhưng điều đó không có nghĩa là lòng nhân ái của dân tộc ta nhất thiết phải lấy từ Nho hoặc Phật. “Nhân” ở Việt Nam không phải là “bản sao” của “Nhân” trong Nho giáo Trung Quốc hay “từ bi” của đạo Phật. Nhân dân ta tiếp thu những nội dung nhất định của “Nhân” là bởi đạo lý đó có điều phù hợp với nhu cầu của dân tộc ta. Nhân dân ta vốn sống nhân ái, vị tha trước khi biết đến đạo lý “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” của Nho giáo. Dĩ nhiên, Nho giáo cũng có vai trò nhất định trong việc giúp nhân dân ta đúc kết, hệ thống hóa một số quan điểm đạo đức truyền thống của dân tộc.
Có thể nói, từ phạm trù “Nhân” trong Nho giáo Trung Quốc đến phạm trù “Nhân” trong Nho giáo ở Việt Nam có một quá trình vận động, biến đổi phức tạp, thăng trầm theo dòng lịch sử. Trong quá trình vận động ấy diễn ra sự ảnh hưởng, tiếp biến và làm “khúc xạ” nội dung của nó. Ở Việt Nam, những nội dung ấy không còn nguyên xi như quan niệm của các “thánh hiền” Nho giáo Trung Quốc, mà được tiếp thu có chọn lọc, được bổ sung, làm phong phú bởi truyền thống nhân văn của dân tộc, gắn liền với yêu cầu của mỗi thời lỳ lịch sử, với vai trò, phẩm chất của chủ thể. Tuy nhiên, phạm trù “Nhân” trong Nho giáo ở Việt Nam có những sắc thái riêng nhất định bởi nó được bổ sung bằng thực tiễn lịch sử và truyền thống văn hóa Việt Nam:
Thứ nhất, “Nhân” trong Nho giáo ở Việt Nam cũng mang nội dung trước hết là “yêu người”, song “yêu người” gắn với yêu nước, thương dân. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, “Khái niệm nhân ái Nho giáo vào tâm tư người Việt Nam thành ra yêu đồng bào, yêu Tổ quốc trước hết”. Yêu nước thực chất chính là yêu thương con người ở một trình độ cao hơn. Tình thương đó không chỉ đơn thuần là tình thương của cá nhân này với một cá nhân khác, mà cao hơn thế, nó còn phản ánh quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng; cộng đồng đó là nhân dân, là đất nước. Nó gắn vận mệnh của cá nhân với vận mệnh và sự sống còn, tồn vong của dân tộc. Vị trí của dân được đề cao, vai trò của dân được xem trọng. Nhân nghĩa gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Giáo sư Vũ Khiêu nhận xét: “Coi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo là đạo lý làm người là nội dung của nhân nghĩa theo cách hiểu của Việt Nam, nho sĩ Việt Nam vay mượn những lời lẽ của Khổng Tử để cổ vũ cho đạo lý ấy”.
Thứ hai, “Nhân” chứa đựng một tinh thần khoan dung độ lượng cao cả, độ lượng với những kẻ lầm đường lạc lối, khoan dung với ngay chính kẻ thù xâm lược khi chúng đã thất bại đầu hàng. Đó là một phương châm xử thế đậm chất truyền thống dân tộc.
Người trong quan niệm của các nhà nho tiến bộ ở Việt Nam không phải là con người chung chung trừu tượng, phi giai cấp, phi lịch sử; “người” ở đây được thể hiện rất rõ ràng - đó là người dân lao động lầm than khổ cực, là những dân “manh lệ”, là “dân đen”, “con đỏ”, những người dân nô lệ mất nước, bị áp bức. Cần nói thêm rằng, “yêu người” trong quan niệm của các nhà Nho Việt Nam cũng bao hàm cả nội dung “ghét người”, song đối tượng của sự “ghét” ở đây cũng được xác định cụ thể - đó là ghét kẻ xâm lăng, ghét kẻ giả nhân giả nghĩa lợi dụng chiêu bài nhân nghĩa để reo rắc tai họa cho người khác, cho nhân dân nước khác - nói chung là ghét kẻ thù xâm lược, “thề không đội trời chung với quân nghịch tặc”. Mặc dù vậy, khi chúng đã thất bại lại khoan dung, mở đường “hiếu sinh” mà không “hiếu sát”.
Thứ ba, tư tưởng yêu chuộng hòa bình, tránh binh đao; xây dựng đất nước hòa bình, nhân dân no đủ, xã hội hoà mục là lý tưởng cao nhất của nhân nghĩa Việt Nam. Một xã hội ổn định, thái bình, không có binh đao khói lửa chiến tranh, trên dưới vua tôi hoà mục là điều mà các nhà Nho Việt Nam mong mỏi.
 



 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay

Giới thiệu luận văn “Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay” Tác giả: Nguyễn Thị Huyền Chinh http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23593 Việc báo chí và truyền thông đại chúng (TTĐC) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống của học sinh – sinh viên nói riêng và giới trẻ nói chung không phải là vấn đề lạ lẫm. Trên thế giới cũng đã có rất nhiều tài liệu đề cập đến sự ảnh hưởng của TTĐC đến hành vi của trẻ em, đến giới trẻ. Tại Việt Nam, với sự ra đời của 105 báo, tạp chí điện tử đã tạo ra môi trường thông tin rộng lớn và đa dạng đối với giới trẻ. Không chỉ đóng vai trò là nơi cung cấp thông tin hữu ích, báo điện tử tại Việt Nam còn đóng vai trò định hướng dư luận xã hội, định hướng nhận thức, hành vi và lối sống cho giới trẻ. Tuy nhiên, báo điện tử vẫn chưa thực sự làm tốt vai trò của mình. Do sức ép từ doanh thu, một số báo điện tử đã “bất chấp” đưa ra những thông tin thiếu trung thực, rẻ tiền, xoáy quá sâu...

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...