Chuyển đến nội dung chính

Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải y tế tại các bệnh viện tuyến Trung ương

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/33454


Tại 35 bệnh viện tuyến trung ương, chỉ có 22 bệnh viện hợp đồng với Công ty môi trường xử lý chất thải rắn, còn lại 13 bệnh viện (chiếm 37%) tự xử lý. Trong đó, 6 bệnh viện sử dụng lò đốt để xử lý chất thải rắn y tế và 7 bệnh viện sử dụng hóa chất để xử lý.  


Đại diện Cục Quản lý Môi trường cho biết  trong quá trình kiểm tra, đoàn công tác phát hiện rất nhiều lỗi trong quá trình xử lý rác thải tại các bệnh viện này. Cụ thể, sử dụng chế phẩm diệt khuẩn chưa được Bộ Y tế cấp phép lưu hành; việc phân loại, thu gom rác thải tại hầu hết các bệnh viện được kiểm tra đều làm chưa tốt.
Theo báo cáo, 6 bệnh viện Trung ương chưa có hệ thống xử lý nước thải đó là: Mắt Trung ương, Nội tiết Trung ương, Răng hàm mặt Trung ương Hà Nội, Điều dưỡng – phục hồi chức năng Trung ương, Y học cổ truyền Trung ương và Châm cứu Trung ương. Đáng chú ý, phần lớn bệnh viện trong số này đều nằm trong nội thành và tại các khu vực đông dân cư của Hà Nội. 


Cũng theo báo cáo này, qua khảo sát tại bệnh viện tuyến Trung ương thời gian qua, việc quản lý chất thải rắn nguy hại còn nhiều bất cập. Trong đó có bệnh viện lưu giữ chất thải rắn y tế quá thời gian quy định (Bệnh viện ĐH Y Thái Bình), có nơi chưa có kho lưu trữ riêng chất thải lây nhiễm, hóa học (Bệnh viện E).  Tại Bệnh viện Việt Đức, Cục Quản lý môi trường y tế đánh giá việc xử lý vật sắc nhọn chưa đảm bảo an toàn…
Về quản lý, sử dụng chế phẩm diệt khuẩn tại cơ sở y tế, Cục Quản lý môi trường y tế cũng cho biết có hiện tượng cơ sở y tế mua và sử dụng chế phẩm chưa được cấp phép lưu hành, có hạn sử dụng dài hơn hạn được Bộ Y tế cho phép.
Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn cùng chủ đề “ Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải y tế tại các bệnh viện tuyến Trung ương” của tác giả      Phạm Thị Quỳnh Trang tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/33454

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong v...

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...