Chuyển đến nội dung chính

Hóa thạch Thú (Mammalia)



Lớp Thú, còn gọi là Động vật có vú, hiện nay giữ địa vị thống trị trong số các Động vật có xương sống, bao gồm những động vật có màng ối phát triển hoàn hảo nhất. Chúng có nhiều đặc điểm tiến bộ trong cấu trúc cơ thể như bộ răng phân dị, các giác quan được hoàn thiện, đặc biệt là các cơ quan của hệ thần kinh trung ương và sự có mặt của nhau thai. 


Khác với Chim và Bò sát, tất cả Thú thuộc loại đẻ con. Phôi phát triển trong tử cung của cá thể mẹ, được bao bọc bởi màng phôi.
Thú gồm các động vật máu nóng nên cuộc sống của chúng ít bị phụ thuộc vào các điều kiện khí hậu hơn so với Bò sát. Chúng sống trên khắp Trái Đất và chiếm lĩnh tất cả các sinh cảnh có khả năng sống được.
Thú thường có thân dài, được nâng cao trên 4 chân. Giữa đầu và mình đó có cổ rõ ràng, phía sau có đuôi tách riêng chứ không liền khối với mình như ở đa số động vật Bò sát. Da của Thú có nhiều tuyến da khác nhau, đặc biệt là tuyến sữa. Đa số Thú có lông mao phát triển từ lớp ngoài cùng của da. Sự thay lông xảy ra theo chu kỳ, thường 2 năm một lần. Nhiều Thú cũng được trang bị sừng như móng, vuốt, vẩy sừng

  

Bộ xương Thú rất đa dạng và phức tạp, tuỳ thuộc vào cách sống và môi trường sống.
Trong việc nghiên cứu hoá thạch Thú người ta chú ý nhất đến cấu tạo sọ, răng và các chi, đó là những bộ phần phản ánh rõ nhất môi trường sống của chúng. Số lượng xương cấu tạo nên sọ Thú ít hơn so với Bòa sát. Một số xương gắn kết với nhau bởi những đường khâu bất động, một số khác chỉ gắn liền với nhau sau khi con vật ra đời khá lâu. Sọ khớp với cột sống nhờ 2 lồi cầu chẩm, vì vậy Thú có thể cử động trên mặt phẳng thẳng đứng. Hàm dưới chỉ gồm 1 xương răng, xương này gắn kết với xương vẩy của sọ. Các xương vuông và xương khớp biến đổi thành các xương tai. Các chi của đa số Thú có 5 ngón, nằm ở phía dưới thân. Nhưng để thích nghi với các kiểu di chuyển khác nhau (chạy, nhảy, bơi) các chi của Thú bị biến dạng khá nhiều. 


Bộ răng của Thú phân dị, gồm các răng cửa hình lưỡi tràng dùng để cắt thức ăn, các răng nanh hình nón nhọn để cắn xé mồi và các răng hàm dùng để nghiền thức ăn. Trong số các răng hàm có loại răng hàm nhỏ có thể thay một lần và các răng hàm lớn không thể thay được. Thú phát sinh từ động vật Bò sỏt dạng thú.
Vào Trias muộn đã xuất hiện những đại diện Thú đầu tiên, đôi khi chúng được gộp lại thành nhóm Thú nguyên thuỷ (Theria). Trong Jura và Kreta, số lượng Thú chưa đông. Từ đầu Paleogen chúng đã phát triển đa dạng và hiện nay trở thành nhóm động vật thống trị Trái Đất, có tổ chức cao nhất. Hóa thạch Thú có mặt trong trầm tích có tuổi từ Kreta tới nay.
Ngoài ý nghĩa địa tầng, chúng còn có ý nghĩa lớn trong khảo cổ học, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử phát sinh và tiến hóa loài Người.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...

The hit problem for the Dickson algebra

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/32051   In mathematics, the Cayley–Dickson construction, named after Arthur Cayley and Leonard Eugene Dickson, produces a sequence of algebras over the field of real numbers, each with twice the dimension of the previous one. The algebras produced by this process are known as Cayley–Dickson algebras. They are useful composition algebras frequently applied in mathematical physics. The Cayley–Dickson construction defines a new algebra similar to the direct sum of an algebra with itself, with multiplication defined in a specific way (different from the multiplication provided by the genuine direct sum) and an involution known as conjugation. The product of an element and its conjugate (or sometimes the square root of this product) is called the norm. The symmetries of the real field disappear as the Cayley–Dickson construction is repeatedly applied: first losing order, then commutativity of multiplication, associativity of ...