Chuyển đến nội dung chính

Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam


Đưa tiền bất hợp pháp vào lưu chuyển trong hệ thống kinh tế tài chính; tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi “sắp xếp” tiền thâm nhập vào hệ thống tài chính; Đầu tư hợp pháp, gọi tắt là “hoà nhập, là ba công đoạn rửa tiền qua ngân hàng phổ biến của bọn tội phạm hiện nay. Đây là những thủ đoạn rửa tiền tinh vi của bọn tội phạm trong hệ thống tài chính.



Cụ thể, các công đoạn rửa tiền được triển khai thực hiện chủ yếu như sau:
- Công đoạn 1: Đưa tiền bất hợp pháp vào lưu chuyển trong hệ thống kinh tế tài chính, hay nói cách khác là gửi tiền. Đây là thao tác đầu tiên của hoạt động rửa tiền, nhằm chuyển đổi các khoản tiền do phạm tội mà có sang các hình thức hợp pháp khác và đưa vào các chu trình kinh tế tài chính.
Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất đối với bọn tội phạm vì tiền và tài sản có được là bất hợp pháp và đang được cơ quan điều tra theo dõi. Hơn nữa, các cơ quan chức năng đặt ra các quy chế, quy định pháp luật để “bắt thóp” bọn tội phạm rửa tiền, ví dụ như quy định lượng tiền mặt được đưa qua biên giới, được phép thanh toán, các quy định về khai báo ngân hàng.
- Công đoạn 2: Quá trình tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã thâm nhập hệ thống tài chính, hay nói cách khác khoản tiền đã chuyển dịch và sắp xếp. Trong công đoạn này, hàng nghìn thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm cho đồng tiền chuyển dịch khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xoá đi dấu vết tội phạm, cắt đứt một cách “giả tạo” mối liên hệ giữa tài sản và tổ chức tội phạm.
Quốc gia nào có hệ thống Luật Doanh nghiệp càng thông thoáng càng dễ bị lợi dụng thông qua việc thành lập công ty “ma”. Ở Việt Nam, tình trạng các tổ chức, doanh nghiệp lợi dụng thành lập doanh nghiệp “ma” chủ yếu để mua bán hóa đơn, còn phục vụ cho mục đích rửa tiền còn ít.
Các giao dịch tài chính tinh vi như tham gia vào thị trường tài chính thứ cấp gắn liền với việc sử dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến như internet banking cũng gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
- Công đoạn 3: Đầu tư hợp pháp. Ở công đoạn này, bọn tội phạm sử dụng tiền, tài sản đã được tẩy rửa để đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các khoản vay cá nhân, cổ phiếu, tín phiếu, bất động sản...
Việc đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị đồng tiền phạm tội, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm.

Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động rửa tiền qua ngân hàng của bọn tội phạm rất đa dạng, phức tạp và được triển khai thực hiện qua nhiều công đoạn. Vì vậy, vấn đề phòng chống rửa tiền không chỉ là hoạt động riêng của bất kỳ ngân hàng nào mà là sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ngành, giữa ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại và giữa các phòng ban trong nội bộ ngân hàng thương mại.
Để phòng chống rửa tiền có hiệu quả, các quốc gia đã hình thành trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ quản lý. Nếu có những giao dịch đáng ngờ, thông tin sẽ được báo về trung tâm này, các cơ quan chức năng sẽ phối hợp với nhau để xử lý.

Chính vì vậy, để công tác phòng chống rửa tiền ở Việt Nam qua hoạt động ngân hàng một cách hiệu quả cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (Interpol), an ninh kinh tế trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền theo quy định của pháp luật; tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến rửa tiền đồng thời chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để thanh tra, điều tra, xử lý các đối tượng có hành vi liên quan đến hoạt động rửa tiền qua ngân hàng.
Mời các bạn đọc luận văn “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hải Giang tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/1277



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong v...

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...