Chuyển đến nội dung chính

Determination of Operation Factors in Treating Piggery Wastewater by Membrane Bioreactor

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/1014

An investigation into the treatment efficiency of real piggery wastewater of a bench-scale aerobic membrane bioreactor was performed.


The experiments were aimed to evaluate the effects of hydraulic retention time and activated sludge concentration.
The piggery wastewater having high chemical oxygen demand, ammonium and total phosphorus concentrations (about 4200 mg/l, 320 mg/L and 48 mg/L, respectively) was employed.
It was found that the removal efficiency of COD reached up to 94% even at operation conditions of HRT = 24 hours and MLSS = 6000 mg/L, but the HRT need to be increased twice in order to obtain the removal of 99% NH4+-N and 85% T-P.
The similar efficiency was also achieved by reduced HRT to 8 hours but increased MLSS to 12000 mg/L.
Keywords: Membrane bioreactor (MBR), piggery wastewater, microfiltration, activated sludge, eutrophication.

Title: 
Determination of Operation Factors in Treating Piggery Wastewater by Membrane Bioreactor
Authors: 
Keywords: 
Membrane bioreactor (MBR);piggery wastewater;microfiltration;activated sludge;eutrophication
Issue Date: 
2015
Publisher: 
ĐHQGHN
Citation: 
tr. 47-53
Series/Report no.: 
Vol. 31, No. 2 (2015);
Abstract: 
An investigation into the treatment efficiency of real piggery wastewater of a bench-scale aerobic membrane bioreactor was performed. The experiments were aimed to evaluate the effects of hydraulic retention time and activated sludge concentration. The piggery wastewater having high chemical oxygen demand, ammonium and total phosphorus concentrations (about 4200 mg/l, 320 mg/L and 48 mg/L, respectively) was employed. It was found that the removal efficiency of COD reached up to 94% even at operation conditions of HRT = 24 hours and MLSS = 6000 mg/L, but the HRT need to be increased twice in order to obtain the removal of 99% NH4+-N and 85% T-P. The similar efficiency was also achieved by reduced HRT to 8 hours but increased MLSS to 12000 mg/L. Keywords: Membrane bioreactor (MBR), piggery wastewater, microfiltration, activated sludge, eutrophication.
URI: 
ISSN: 
0866-8612
Appears in Collections:


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong v...

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...