http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53843
Nói
đến lịch sử Phật giáo Việt Nam, hầu hết người ta nghĩ ngay đến Thiền tông. Gần
như chẳng có một sử liệu nào nói về Tịnh độ. Việt Nam Phật giáo sử lược của
TT.Thích Mật Thể không hề nói đến Tịnh độ. Bộ Việt Nam Phật giáo sử luận của
Nguyễn Lang dày đến hơn 1000 trang, trong đó chỉ có chưa đầy 2 trang nói về Ảnh
hưởng Tịnh độ giáo đối với phái Thiền Vô Ngôn Thông và một vài nhận định đầy
tính chủ quan.
Chính
giáo sư Nguyễn Lang viết: Sự phối hợp giữa Thiền và Tịnh độ sau này sẽ trở nên
quan trọng trong đạo Phật tại Việt Nam (Việt Nam Phật giáo sử luận, q.1,
tr.204). Câu kết 2 trang nói về Tịnh độ ấy bị bỏ lửng. Chẳng ai biết nó quan trọng
như thế nào? Pháp môn Tịnh độ được truyền vào Việt Nam vào thời gian nào? Có sự
truyền thừa không? Phương pháp hành trì cũng như sự chứng nghiệm của nó ra sao
không hề được nhắc đến. Đây chỉ là sự khan hiếm tài liệu vốn chỉ dựa căn bản
vào Thiền uyển tập anh để viết sử hay đó là thiên kiến của người viết sử bị
đóng khung bởi Thiền học?
Rất
may là trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam của học giả Lê Mạnh Thát, dù không
dành một chương nào nói về Tịnh độ, nhưng với thái độ khách quan phân tích sự
kiện qua các thời đại, phần nào giúp cho ta lượm lặt được vài yếu tố để tìm mối
liên hệ của Tịnh độ giáo trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Việt Nam.
Có
lần người viết được lên đỉnh núi Yên Tử quê hương của Thiền phái Trúc Lâm. Từ đỉnh
chùa Đồng đi xuống núi trong một sớm đầy sương, tôi đã chứng kiến cảnh niệm Phật
A Di Đà vang cả núi của hàng ngàn tín đồ lục tục lên núi từ đêm khuya. Cái cảnh
mà một thi nhân tiền chiến từng mô tả:
Gậy
trúc dắt bà già tóc bạc
Lần
lần tràng hạt miệng Nam mô
(Anh
Thơ)
Không
phải chỉ có bà già tóc bạc, già trẻ lớn bé lần lượt lên núi, vừa đi vừa niệm, mỗi
bước chân chạm vào từng thớ rễ Đường Tùng là miệng nở một câu A Di Đà Phật ngân
dài. Nguyễn Nhược Pháp trong bài thơ “Em đi chùa Hương” nổi tiếng cũng không
quên nhắc đến câu Nam mô A Di Đà vốn đã thành chi tiết không thể thiếu. Ngồi
trước sân chùa Hoa Yên, tôi tự hỏi: Giáo lý Tịnh độ A Di Đà đã thịnh hành tại
quê hương Thiền phái Trúc Lâm tự bao giờ mà sâu đậm đến như vậy? Hẳn không phải
chỉ mới vài chục năm mà phổ cập như thế. Bởi chính Giáo sư Nguyễn Lang đã từng
nhận định: Sự có mặt của giáo lý Tịnh độ ở Việt Nam được đánh dấu chậm lắm là
vào khoảng giữa thế kỷ thứ XI (Sđd, tr.202).
Thực
ra, tư tưởng Tịnh độ xuất hiện ở Việt Nam có thể trước cả Trung Quốc. Trong thời
đại Phật giáo quyền năng trước thời Hai Bà Trưng (năm 43), chúng ta đã thấy phảng
phất tư tưởng Tịnh độ thể hiện qua hình ảnh vị Phật khác với Đức Phật lịch sử.
Đến Mâu Tử, Lý hoặc luận (khoảng cuối thế kỷ II TL), khái niệm Niệm Phật đã được
nhắc đến như một công phu tu hành. Giai đoạn hình thành Lục Độ Tập kinh và Cựu
Tạp Thí Dụ kinh, theo học giả Lê Mạnh Thát là trong những năm 138 trở đi. Ông
viết: Điểm cần lưu ý là truyền 60 (của Cựu Tạp Thí Dụ kinh NV) là văn bản đầu
tiên hiện biết nhắc tới danh hiệu Đức Phật A Di Đà trong lịch sử Phật giáo nước
ta. Tín ngưỡng A Di Đà từ đó xuất hiện khá sớm và đến khoảng năm 450 đã chiếm
lĩnh được một vị thế trọng yếu ở Trung tâm Tiên Sơn... (Lê Mạnh Thát, Lịch sử
Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb Thuận Hóa, tr.109).
Như
vậy, ở đầu thế kỷ thứ V Tây lịch, Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ cũng
đã thịnh hành ở Giao Chỉ. Nội dung của 6 lá thư và cái chết của Đàm Hoằng do sử
gia Lê Mạnh Thát phân tích cho ta một nhận định rõ ràng về sự phát triển của Tịnh
độ giáo Việt Nam thời kỳ đầu (1). Trước khi Thiền pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi
truyền đến Tiên Sơn qua Pháp Hiền ở đó, Đàm Hoằng đã xiển dương Tịnh độ giáo mạnh
mẽ qua việc tụng kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Thập Lục Quán, lòng thề về An dưỡng
quốc. Trên cơ sở sử liệu có được, ta có thể tạm xem Đàm Hoằng như Sơ tổ của Tịnh
Độ tông Việt Nam (?). Rất tiếc sau đó ta không có một chi tiết liên hệ nào nói
về sự truyền thừa. Nhưng sự thắng thế của 6 lá thư cùng ảnh hưởng cái chết của
Đàm Hoằng, chắc chắn tư tưởng Tịnh độ A Di Đà sẽ còn phát triển sâu rộng song
song với Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Đến
thế kỷ XI, chính xác là vào năm 1057, một lang tướng của vua Lý Thánh Tông đã
chạm khắc một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá cao 2,5m tại núi Lạn Kha, huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tượng này hiện vẫn còn thờ ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh,
bia đá của chùa có nói về chuyện này. Đây có thể là tượng Phật A Di Đà bằng đá
lớn nhất ở Việt Nam. Thiền sư Không Lộ (?-1119) thuộc đời thứ 9 dòng Vô Ngôn
Thông cũng từng sang nhà Tống xin đồng về đúc Tứ khí, trong đó có một tượng Phật
A Di Đà thờ tại chùa Quỳnh Lâm.
Trong
An Nam Tứ khí chỉ có một pho tượng Phật, đó là tượng Phật A Di Đà do một thiền
sư đúc tạo, điều đó chứng tỏ tín ngưỡng Di Đà không thua kém Thiền tông. Sau
Không Lộ là Tịnh Lực (1112 - 1175) đời thứ 10 dòng Vô Ngôn Thông, người đã đắc
được pháp Niệm Phật Tam muội . Sư dạy: Các ngươi! Tất cả các người học đạo lấy
tâm siêng năng cúng dường Phật, không gì khác hơn chỉ cầu dứt được các nghiệp
ác. Tâm miệng niệm tụng, tin hiểu nghe nhận, ở chỗ vắng vẻ yên lặng, gần thiện
tri thức. Nói ra lời hòa nhã, nói phải thời đúng lúc, trong tâm không khiếp nhược...
Liễu đạt nghĩa lý, xa lìa ngu mê, an trụ chỗ bất động. Quán tất cả pháp vô thường
vô ngã, vô tác vô vi (Thiền sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, tr.143). Như vậy Tịnh
Lực là một thiền sư nhờ công phu niệm Phật mà hoàn thành được Thiền định. Đây
là sự phối hợp giữa Thiền và Tịnh độ của Thiền phái Vô Ngôn Thông mà nguồn gốc
của nó có thể xuất phát từ Vĩnh Minh Diên Thọ ở Trung Quốc.
Chúng
ta không biết được kinh điển Tịnh độ giáo thời kỳ này như thế nào. Nhưng đến đời
Trần, qua tác phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông (1218 - 1277), tư tưởng về niệm
Phật đã chín muồi đến độ ta có cảm tưởng pháp môn Niệm Phật đã hoàn bị như một
tông phái chính yếu của Việt Nam song song với Thiền pháp.
Trong
Khóa hư lục, ngoài những chủ đề căn bản như khuyên phát tâm Bồ đề, luận về sắc
thân và các bài văn răn giữ Ngũ giới..., tác phẩm còn có hai bài luận về Niệm
Phật và Tọa Thiền. Bài bàn về niệm Phật tuy ngắn gọn nhưng súc tích, bao quát
toàn bộ giáo nghĩa Tam thừa, phân tích đầy đủ pháp môn dành cho thượng trung hạ
trí. Không rõ vị vua đầu tiên đời nhà Trần đã được thọ giáo từ đâu mà lại có kiến
giải về Tịnh độ sâu sắc như thế. Sau khi phân tích nghĩa Niệm Phật dành cho ba
hạng căn trí, Trần Thái Tông viết: Ba hạng người trên, tuy nông sâu khác nhau,
nhưng tới chỗ sở đắc là một. Song lối tu theo thượng trí, nói thời dễ, nhưng
làm lại khó (...). Lối tu theo hạ trí, lấy niệm Phật làm nấc thang, chú ý ở thiện
duyên, nguyện sanh sang nước Phật, siêng năng tinh tấn, tâm tính thuần thục,
sau khi mạng chung, theo nguyện của mình được sanh sang nước Phật. Đã sanh sang
nước Phật rồi, thời thân đó không bao giờ mất.
Người
tu học đời nay, đã được mang thân người, đều có ba nghiệp, lại chẳng lấy môn niệm
Phật để cầu sanh sang nước Phật, thời không thể được. Như muốn niệm Phật, tức
phải lấy hạ trí làm trước. Tại sao? Vì có chú ý vậy. Ví như có người làm đài ba
tầng, mà không cất tầng dưới trước, tất không thể có được! (Khóa hư lục, bản dịch
của HT.Thích Thanh Kiểm, 1997).
Thầy
của vua Trần Thái Tông không ai khác hơn là Trúc Lâm Quốc sư, tức Thiền sư Đạo
Viên (theo Thiền uyển tập anh) hay Viên Chứng (theo tài liệu truyền thừa chùa
Hoa Yên). Như ta đã biết, Thiền sư Đạo Viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự tu học
của Trần Thái Tông và có đóng góp lớn trong việc kiểm đọc các bộ kinh lục trước
khi khắc bản gỗ để ấn loát phát hành. Đạo Viên là đệ tử của Hiện Quang, tức Tổ
thứ hai của truyền thống Yên Tử. Điều này chứng tỏ trước khi Trần Nhân Tông
thành lập phái Thiền Trúc Lâm thì tại núi Yên Tử, Thiền và Tịnh độ đã song hành
thể hiện qua tác phẩm của Thái Tông và nói cho cùng, thì toàn bộ Khóa hư lục với
các khoa nghi lễ sám đã khẳng định khuynh hướng thiên nặng về Tịnh độ của vị
vua đầu đời Trần. Đây là cơ sở khá thuyết phục để gợi ý các nhà viết sử bỏ công
tìm hiểu truyền thừa Tịnh độ tông Việt Nam.
Tuệ
Trung Thượng Sĩ, vốn chỉ được biết qua tư tưởng Thiền học, là cội nguồn của Thiền
phái Trúc Lâm, cũng từng có thi kệ nói về Tịnh độ:
Tâm
nội Di Đà tử mạ khu
Đông
Tây Nam Bắc pháp thân chu
Trường
không chỉ kiến cô luân nguyệt
Sát
hải trùng trùng dạ mạn thu.
(Di
Đà vốn thực Pháp thân ta
Nam
Bắc Đông Tây khắp chói lòa
Trăng
thu ngự giữa trời cao rộng
Đêm
lặng trùng dương rạng chiếu xa).
(Nguyễn
Lang dịch)
Vào
thời đại khai sáng Thiền phái Trúc Lâm, tăng sĩ cũng áp dụng phương pháp niệm
Phật tập thể trong những buổi đại chúng vân tập. Sách Thiền đạo yếu học cũng có
ghi lại cuộc vấn đáp của Trúc Lâm với vài vị Tăng trong khi đại chúng đang thực
hành phương pháp niệm Phật trên chánh điện. Chi tiết này đã được giáo sư Nguyễn
Lang nhắc đến trong phần Các khuynh hướng tư tưởng trong Phật giáo đời Trần
(Sđd, tr.457). Thế nhưng nó chỉ được nhắc đến như một chi tiết phụ. Trong khi
các tác phẩm khoa sớ của đời Trần phần nhiều là Giáo Thiền nhất trí, nếu không
muốn nói là thiên nặng về Giáo.
Ảnh
hưởng Tịnh độ giáo đời Trần còn có thể thấy qua đài tháp Cửu phẩm Liên hoa do
Tam Tổ Huyền Quang dựng tại chùa Ninh Phúc (tức chùa Bút Tháp). Tháp gỗ này hiện
nay vẫn còn, có thể xoay được quanh một trục chính ở giữa. Đây có lẽ là bảo vật
vô giá của Tịnh Độ tông Việt Nam đang dần hư mục. Về nghi lễ và nghi thức tụng
niệm trong hai thời công phu sớm tối, ngoài các thần chú vốn của Mật giáo, kinh
A Di Đà, thần chú Vãng sinh Tịnh độ, niệm Phật, lễ Phật và hồi hướng Cực lạc là
những hành nghi chủ yếu, gần như không có một bản kinh nào thuần túy là Thiền học
được đưa vào trong hai thời khóa tụng.
Đến
thế kỷ XVII, khi Thiền sư Chân Nguyên khôi phục lại truyền thống Trúc Lâm Yên Tử
thì cũng là lúc mà Tịnh độ giáo chiếm vị trí chủ yếu trong Phật giáo Việt Nam.
Từ Chân Nguyên đến các danh tăng Đàng Ngoài và Đàng Trong suốt thế kỷ XVIII,
XIX, mối liên hệ về Tịnh Độ tông có thể dễ dàng tìm thấy qua trứ tác của các Tổ
lẫn các loại hình văn hóa. Sự khảo cứu có lẽ phải chờ đợi một công trình công
phu mới hoàn bị được. Các tác phẩm văn học lớn trong thời kỳ này như Cung oán
ngâm khúc, Kim Vân Kiều truyện v.v... đều mang nặng tư tưởng Tịnh độ. Quả là
không khó để tìm hiểu vì sao Tịnh độ giáo thịnh hành hết sức rộng rãi tại Việt
Nam hiện nay.
II.
Giáo nghĩa Tịnh độ và bối cảnh Tịnh độ
Lẽ
ra phần giáo nghĩa Tịnh độ phải được trình bày trong một chương mục riêng.
Nhưng chương sớ về Tịnh độ nhiều vô kể, không thể trình bày trong một bài viết.
Hơn nữa, tài liệu về Tịnh độ ở Việt Nam hiện nay cũng rất nhiều. Trong phần
này, chúng tôi chỉ xin trình bày những vấn đề liên quan đến pháp môn Tịnh độ ở
Việt Nam, liên hệ lịch sử để nêu ra một cái nhìn thiết thực cho hiện tại.
Tịnh
độ vốn là một khái niệm rất rộng. Pháp sư Ấn Thuận đã từng nói: Giới luận và Tịnh
độ, không nên tách thành tông độc lập . Cũng như Đại sư Thái Hư từng dạy: Luật
là nền móng chung của Tam thừa, Tịnh là cái che chở chung của Tam thừa (Luận
thuyết mới về Tịnh độ và lợi ích của việc hành Thiền; bản dịch của Nguyễn Văn
Phát, Trung tâm Tư liệu Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991). Người học Phật đã xuất
gia hay tại gia đều phải hành trì giới luật. Cũng vậy, Tịnh độ là một thế giới
lý tưởng mà bất kỳ tông phái nào, dù Tiểu thừa hay Đại thừa đều có thể tu hành
để đạt đến. Đại sư Ấn Thuận là người có tư tưởng rất mới, cũng thừa nhận rằng
dù Thiên Thai, Hiền Thủ, Duy Thức, Tam Luận cho đến Thiền tông đều có thể tu
hành và hoằng dương Tịnh độ.
Việc
hoằng dương Phật pháp tại thế gian phải xem trọng cả hai mặt lý trí và tình cảm.
Tịnh Độ tông có thể dung hòa được cả hai yêu cầu này. Chữ Tịnh có hai nghĩa: Sự
thanh tịnh của chúng sinh và sự thanh tịnh của thế giới. Hễ tâm thanh tịnh thì
chúng sinh tịnh và tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh (Kinh Kim Cang). Nhưng Tịnh
độ thì có rất nhiều cõi. Các kinh đều đã giới thiệu chi ly y báo và chánh báo
các cõi Tịnh tộ như cõi trời Đâu Suất, nơi tối hậu thân của Bồ tát Di Lặc đang
trụ. Rồi Tịnh độ của cõi Phật A Súc, Tịnh độ của cõi Phật Dược Sư, kể cả Tịnh độ
Hương Bạt La trong truyền thuyết của Mật giáo. Ngoài ra cũng có thể chia Tịnh độ
thành các cõi như Thường tịnh quang độ, Thật báo vô chướng ngại độ, Phàm thánh
đồng cư độ và Phương tiện hữu dư độ. Có rất nhiều điều cần bàn về những khái niệm
này. Ở đây tôi chỉ muốn luận về Tịnh độ Cực lạc phương Tây của Đức Phật A Di Đà
một tín ngưỡng hết sức thịnh hành ở Trung Quốc và Việt Nam trong cận và hiện đại.
Pháp
môn Tịnh độ cũng có rất nhiều cách tu hành. Ở đây cũng xin giới hạn trong pháp
Trì danh niệm Phật. Tức pháp môn mà các hành giả niệm Phật, y theo Tịnh độ tam
bộ kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ hành trì, nguyện cầu vãng
sinh về Cực lạc. Đây là một pháp môn mà chư Tổ xiển dương là thù thắng nhất.
Người Việt Nam luôn có tư tưởng dung hòa, nên trong các thời khóa tụng tại các
chùa ở Việt Nam, tôi luôn nhận thấy sự kết hợp cả Thiền - Tịnh - Mật.
Chẳng
hạn các bài kệ quán tưởng là Thiền, các bài chú như Lăng Nghiêm, Đại Bi, Cát tường,
Vãng sinh là khuynh hướng Mật, phần kinh chính thường là kinh Di Đà hay phẩm Phổ
Môn. Sau đó luôn có phần trì danh niệm Phật... Đây là một chi tiết hết sức thú
vị: Nếu lịch sử tư tưởng dân tộc là Tam giáo đồng nguyên (Thích, Đạo, Nho) thì
lịch sử Phật giáo dân tộc lại cũng là Tam tông nhất trí (Thiền, Tịnh, Mật). Nếu
Thích, Đạo, Nho từng theo thời kỳ mà hưng phế thì Thiền, Tịnh, Mật cũng tuy
theo giai đoạn mà thịnh suy khác nhau. Vào thời kỳ du nhập, Phật giáo Việt Nam
nhuốm màu sắc quyền năng, Mật giáo trở thành phương tiện hóa đạo hữu hiệu. Ở thời
đại hưng thịnh của Phật giáo, sông núi thanh bình, người người hít thở cái
không khí sâu lắng của đất trời để tìm về cội nguồn tâm thức, Thiền tông hưng
thịnh. Còn giai đoạn hiện nay, chiến tranh lan tràn thế giới, bệnh dịch hoành
hành, môi trường nhiễm độc..., người ta thích mơ tưởng về một thế giới thanh tịnh,
một thế giới an lành và Tịnh độ Cực lạc được giới thiệu như một cõi lý tưởng.
Người ta tin tưởng và hướng về, thực chẳng có gì là lạ.
Tư
tưởng Giáo Thiền nhất trí đã được Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ở Trung Quốc đề
xướng qua bài kệ Tứ liệu giản có thể nói phù hợp nhất với Phật tử VIệt Nam hiện
đại. Nhưng ở Trung Quốc từ xưa, sự phân chia rạch ròi Thiền Tịnh đã khiến cho
thái độ Hiển kỷ giáng tha đôi lúc đến mức gay gắt. Tịnh Độ Chân tông và Nhật
Liên tông ở Nhật Bản cũng rơi vào tình trạng này. Riêng ở Việt Nam từ xưa, như
trong phần trước đã chứng minh, cả hai Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn
Thông và cả Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đều vận dụng pháp môn Tịnh độ. Tuy kiêm
tu nhưng Tịnh độ vẫn được xem như pháp môn chính yếu, phù hợp với căn cơ chúng
sinh đời mạt pháp. Tùy cơ hóa đạo là phương châm hành đạo của Phật giáo trong mọi
thời kỳ.
Pháp
môn Tịnh độ đáp ứng được hai nhu cầu lý trí và tình cảm, dung hội được cả lý và
sự 宠. Điều đáng tiếc là một số người, khi được
hỏi về Tịnh độ, do đối phó với tri thức khoa học nên đã khá duy lý khi giải
thích về Tịnh độ Cực lạc. Về một thế giới Cực lạc như trong kinh A Di Đà ⍊
trình bày, họ cho rằng đó chỉ là phương tiện dẫn dắt. Họ cho rằng Nhất thiết
duy tâm, Tùy kỳ tâm tịnh...
Về
lý thì họ có thể đúng, nhưng nếu bỏ sự mà chỉ theo lý, đó hoàn toàn không phải
là bổn ý của Tịnh độ. Một số người khi nghiên cứu về lịch sử hình thành kinh điển
Đại thừa lại rơi vào một căn bệnh trầm kha khi cho rằng kinh A Di Đà không phải
do Phật thuyết nên chỉ xem như... phương tiện của Đại thừa, một chữ phương tiện
đầy ý tạm bợ chứ không phải phương tiện tích cực của Đại thừa. Như vậy, họ chỉ
mới biết được lịch sử hình thành, xuất hiện của kinh mà không nắm được lịch sử
tư tưởng cũng như giá trị thực tại của Phật giáo. Sự bình đẳng của các chúng Bồ
tát, Thanh văn xuất hiện trong Pháp Hoa, sự xuất hiện của Duy Ma Cật để dung
hòa và thăng hoa sứ mệnh của cư sĩ trong Bồ Tát đoàn, vị trí Thắng Man phu nhân
trong quá trình xóa bỏ thái độ phân biệt nam nữ cũng như sự trang nghiêm Tịnh độ
thù thắng của Hoa Nghiêm, Di Đà, Dược Sư v.v... là một tiến trình tất yếu và đặc
sắc của Đại thừa. Chúng chẳng những không xa lìa thực tại mà còn là phát biểu một
cách chân thực bản hoài của đức Phật vốn chưa thể nói hết được trong bốn mươi
chín năm ngắn ngủi của đời Ngài trong một bối cảnh xã hội khác và không để lại
một chữ viết. Do đó, nếu phủ nhận Tịnh độ Di Đà là vô tình phủ nhận cả bản hoài
của Đức Phật.
Tịnh
độ Cực lạc là một thế giới hiện thực. Thế giới đó nằm trong nguyện lực của Phật
A Di Đà chứ không phải ở một nơi nào đó để cho những thiển kiến của khoa học thực
nghiệm dùng máy bay phản lực tìm đến để cân đong đo đếm. Chừng nào cuộc đời này
còn khổ đau, sinh tử, chừng nào người ta còn thấy sự khổ đau này là thật thì chừng
ấy thế giới Cực lạc vẫn còn có thật. Bao giờ người ta không còn bị tham sân si
mạn ràng buộc, thế giới này là thanh tịnh và an lạc, thì chừng ấy Cực lạc không
cần nữa.
Kinh
A Di Đà được hình thành ở Ấn Độ. Cảnh giới Cực lạc giới thiệu trong kinh là giới
thiệu cho phù hợp với huyền học Ấn Độ và nhu cầu của con người thời ấy. Trong
nhận thức của các bậc Thánh Ấn Độ ngày xưa, sông núi là vật cách trở, sự gập ghềnh
là mất cân đối, bụi bặm là nhiễm ô và sự nghèo khổ là... kém phước báo. Do đó,
cảnh giới trong kinh A Di Đà bằng phẳng, đều đặn, thanh tịnh, giàu có và diễm lệ.
Cây
cối, điện đường, lầu các, thất bảo trang nghiêm... đều là phản ánh trong trung
thực ước mơ của tâm thức Ấn Độ. Thế thì tại sao ngày nay khi giảng về Cực lạc
cho phật tử Việt Nam, ta lại không nói Tịnh độ không có cảnh... kẹt xe, Tịnh độ
không có bệnh AIDS, chiến tranh; môi trường tuyệt đẹp, cực kỳ sạch sẽ, thanh tịnh.
Tại sao không giảng rằng Tịnh độ không có cảnh con cái tố cha mẹ, trò đánh thầy,
bạn bè lừa lọc nhau. Tại sao lại không thể nói rằng ở cõi ấy Vi phong xuy động
trên những ngọn thông, ngọn dương liễu, phát ra âm thanh vi vu, làm lay động những
chiếc phong linh dưới mái thềm của những chùa, viện nằm thấp thoáng dưới rặng
tre già. Những dòng suối quanh năm mát rượi chảy qua những sườn đồi cỏ xanh mơn
mởn, điểm xuyết bằng những luống hoa cỏ may ngan ngát ven bờ... Rồi những con
đường cát sạch mịn màng, những lối sỏi thân thương dẫn vào cổng chánh điện. Sớm
chiều, chúng sinh ở cõi ấy bận áo tràng chỉnh tề, hái những bông hoa tươi thắm
nhất dâng lên cúng dường đức Phật, sau đó về niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng...
Đó
là nói về sự tịnh hóa của nhân giới, còn chúng sinh giới cũng vậy: Đời sống
kinh tế dồi dào, xã hội nhân quần thuần thiện, không có sự phân biệt chủng tộc,
giàu nghèo, mạnh yếu, không có sự oán ghét thù địch. Đối với thân tâm thì bình
đẳng, tự do. Tất cả những khái niệm tự do, bình đẳng của thế giới này đều xuất
phát từ sự chấp ngã và ngã sở. Còn Phật pháp thì dựa trên nền tảng vô ngã và vô
ngã sở để thi thiết Tịnh độ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với ước mơ chung của
nhân loại.
Thực
ra, thế giới Cực lạc có thể thù thắng, viên mãn gấp triệu lần những điều được
diễn đạt trong kinh A Di Đà, tùy theo chánh báo của mỗi người mà y báo khác
nhau. Những điều tôi nói trên kia có vẻ như đùa, thực ra có thể đó là y báo kém
cỏi của bản thân tôi. Chúng ta có thể diễn đạt Tịnh độ thù thắng bao nhiêu cũng
được, miễn cảnh giới ấy không xa rời tầm hiểu biết của con người.
Còn
một điều nữa cũng rất quan trọng: Ở Việt Nam, một số người tri thức thì rơi vào
duy lý. Số còn lại khi tin về Tịnh độ, hầu hết đều xem Tịnh độ như một cõi vĩnh
hằng, khi đã vãng sinh về đó coi như đời đời hưởng phúc an nhàn. Tư tưởng này
vô tình biến Tịnh độ thành một thứ thiên quốc của Thần giáo, giống như thiên
đàng của Thiên Chúa giáo, nếu tin tưởng và xưng danh hiệu Ngài thì sẽ được Ngài
rước về Cực lạc. Họ không biết rằng Cực lạc chỉ là cõi tạm, vãng sinh về sẽ được
những thắng duyên như Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ, trực tiếp được
nghe Phật A Di Đà thuyết pháp, v.v... Tự tánh A Di Đà và Đức Phật A Di Đà không
phải một, không phải khác. Chấp tánh bỏ tướng, chấp tướng bỏ tánh đều sai lầm cả.
Người
tu Tịnh độ đúng đắn là người dung hội cả tánh tướng. Ba yếu tố quan trọng của
người tu Tịnh độ là Tín, nguyện, hạnh. Tín là tin cả lý lẫn sự. Nguyện là nguyện
từ nơi tâm và hạnh là hành cả chánh lẫn trợ. Không thể không có phước báo mà có
thể vãng sinh (Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc).
Vì thế, người tu niệm Phật cần phải giữ giới nghiêm minh, bố thí cúng dường, mở
rộng từ tâm và an nhẫn bất động.
Phương
tiện thiện xảo cũng là một yếu tố quan trọng giúp hành giả niệm Phật dễ nhiếp
tâm. Khoa học kỹ thuật ngày nay phát triển, chúng ta có thể vận dụng chúng cho
những phương tiện tạo thắng duyên niệm Phật. Chẳng hạn như ở Đài Loan đã chế hẳn
một loại radio chỉ chuyên niệm Phật với âm điệu trầm bổng theo tiếng nhạc. Tiếng
chim, tiếng gió, tiếng suối cũng có thể thâu thành băng nhạc nhẹ nhàng, khác với
những âm thanh xập xình hay gắt gỏng của đời thường giúp người ta dễ lắng lòng
lại. Các thiết bị điện tử, ánh sáng đèn v.v... cũng là những phương tiện thiện
xảo trợ giúp hành giả nhiếp tâm niệm Phật. Chúng ta có thể gợi ý cho các nhà sản
xuất chế tạo hàng loạt các thiết bị ấy, đó cũng là một thứ văn hóa của Tịnh độ,
vô cùng cần thiết.
Tóm
lại, đối với phật tử tu Tịnh độ tại Việt Nam hiện nay, ngoài chánh hạnh niệm Phật
vẫn có thể kiêm tu Thiền quán và trì chú như những phương pháp trợ giúp cho việc
niệm Phật được kiên định. Không nên quá câu chấp, nhưng vẫn dành những thời
gian nhất định cho việc xưng danh niệm Phật. Sám hối, lễ Phật cũng là những trợ
duyên rất cần thiết. Ngoài ra cần phải tu bố thí cúng dường, tự lợi lợi tha, thực
hiện trọn vẹn Tứ hoằng thệ nguyện của Đại thừa.
Nhận xét
Đăng nhận xét