http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53852
Chữ tướng này là giả tướng, hư tướng,
huyễn tướng, chứ không phải chân tướng; thế nên mới bảo người ta đừng chấp
trước vào cái tướng này, kẻo bị vạn vật thế gian làm phiền luỵ; nếu từ đó mà
siêu thoát ra được, thì ấy là đến bờ hạnh phúc bên kia rồi.
Chữ
tướng đang nói đến ở đây, thông thường là nói về diện tướng, cũng là nói về tướng
mạo của toàn thể cá nhân ấy. “Tướng tùy tâm sinh” do vậy mà được hiểu là: người
ta có tâm cảnh thế nào thì cái tướng mạo là thế ấy, người ta có tâm tư truy cầu
gì thì có thể thông qua nét mặt tư thái mà nhận ra được. Trong «Tứ Khổ Toàn
Thư» luận thuật rằng: “vị tướng nhân chi tướng, tiên thính nhân chi thanh, vị
thính nhân chi thanh, tiên sát nhân chi hành, vị sát nhân chi hành, tiên khán
nhân chi tâm” (đừng nhìn tướng mạo người, trước tiên hãy nghe thanh âm của người
ta; đừng nghe thanh âm người, trước tiên hãy quan sát hành vi của người ta; đừng
quan sát hành vi người, mà trước tiên hãy xét cái tâm của người ta). Âu cũng là
nhấn mạnh rằng cái “tâm” quyết định cái “tướng” của con người; rằng biến hoá của
diện tướng cũng là biến hoá của tâm biểu hiện ra bên ngoài.
Cố
sự Bùi Độ, Bùi Chương là một ví dụ rất tốt để minh hoạ.
Bấy
giờ là thời triều đại nhà Đường, Bùi Độ thuở nhỏ sống cảnh nghèo khổ cơ cực. Một
hôm, trên đường gặp một vị Thiền Sư Nhất Hạnh. Đại Sư nhìn tướng mạo Bùi Độ, thấy
ánh mắt láo liên, đường gân chạy vào chỗ miệng; ấy là tướng ăn xin đầu phố, đói
khổ mà chết; vì vậy bèn khuyên Bùi Độ nên nỗ lực tu khổ hạnh. Mấy ngày sau, Bùi
Độ nhặt được trên núi Hương Sơn một chiếc đai ngọc của nữ nhân và tìm trả cho
người ta, nhờ thế mà cứu được tính mệnh cha mẹ cô gái ấy. Hôm sau lại gặp Thiền
Sư Nhất Hạnh. Đại Sư coi mặt Bùi Độ mục quang trong sáng, thần thái đã khác hẳn.
Ngạc nhiên quá, Đại Sư bèn hỏi chuyện, và sau khi nghe kể, ông cười lớn và nói:
“tấm thân bẩy thước chẳng bằng khuôn mặt bẩy tấc; khuôn mặt bẩy tấc chẳng bằng
cái mũi ba tấc; cái mũi ba tấc chẳng bằng một khối tâm”. Thiền Sư bèn khuyến
khích Bùi Độ hành Thiện. Quả nhiên Bùi Độ sau làm trọng thần của bốn đời vua Đường
Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, và Đường Văn Tông, là “danh tướng
toàn tài”, đương thời đã thành danh “huân cao trung nguyên, vang danh biên ngoại”.
Trong sử sách nhìn nhận ông là “đức độ thuỷ chung suốt bốn đời vua”, “uy danh đức
độ của ông sánh với Quách Phần Dương”. Bùi Độ có năm người con, đều có danh tiếng
rạng rỡ, bản lãnh hơn người.
Bùi
Chương là người Giang Đông tỉnh Sơn Tây. Cha mẹ của Bùi Chương có quan hệ rất
thân với thần tăng Đàm Chiếu Pháp Sư. Pháp Sư giỏi về thuật tướng số, ông coi
tướng Bùi Chương, thấy thiên đình bạo mãn, địa các phương viên (đỉnh trán và cằm
đầy đặn phúc hậu), là tướng tương lai làm nên sự nghiệp danh giá, nhất định
thành tựu. Khi hai mươi tuổi, Bùi Chương cưới Lý Thị làm vợ. Một năm sau đó anh
đến Thái Nguyên làm quan, vợ con phải để lại ở nhà. Mấy năm sau Bùi Chương trở
về gặp Đàm Chiếu Pháp Sư, thì Pháp Sư rất ngạc nhiên thấy tướng mạo của anh đổi
khác hẳn: thiên đình lép kẹp, cằm nhọn, lòng bàn tay có hắc khí xoay chuyển.
Pháp Sư bèn bảo rằng anh ta e rằng sẽ gặp hoạ, phải cẩn thận; rồi gạn hỏi xem
anh có làm gì thất đức không. Bùi Chương suy xét rồi kể rằng mấy năm ở Thái
Nguyên chỉ phạm mỗi việc thông dâm với dân nữ là trái với luân lý mà thôi, chứ
không làm gì bất lương cả. Đàm Chiếu Pháp Sư thở dài thườn thượt nói: “Vốn dĩ cậu
có tương lai tốt đẹp, sao chẳng biết trân quý? Tư thông với vợ người ta, cậu đã
huỷ hết phúc đức của mình rồi. Thật quá là đáng tiếc!” Dần dần về sau Bùi
Chương thật sự gặp đại hoạ. Một lần, khi đang tắm thì bị hành thích, một đao
trúng bụng, gan ruột phòi ra bỏ mạng.
Thời
cổ có câu: “hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh; hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ
tâm diệt” (có tâm thì dẫu vô tướng, tướng cũng sẽ theo tâm mà sinh; có tướng mà
tâm vô, thì tướng ấy cũng theo tâm mà tiêu mất); ấy là ý bảo rằng: hình tướng một
cá nhân là tuỳ theo tâm niệm thiện-ác của cá nhân ấy mà biến hoá theo.
Kỳ
thực, từ Trung Y cổ đại cũng như sinh lý học và tâm lý học hiện đại là có thể
thấy rằng đạo lý “tướng do tâm sinh” cũng giản đơn thôi. Cái tướng mạo của người
ta là do ‘hình’ và ‘thần’ hợp lại mà thành. Hình tướng thuần thục sinh lý thuận
chính; thần thái cũng là bao quát nhân tố sinh lý; cũng phụ thuộc vào sự tu chỉnh
của hậu thiên nữa. Nhất cử nhất động từng ý từng niệm trong sinh hoạt, qua thời
gian thì dần dần cũng củng cố ra trên khuôn mặt, nghĩa là “hữu chư nội tất hình
chư ngoại” (có gì bên trong ắt xuất hình bên ngoài). Tâm niệm nảy sinh, cũng sẽ
tác dụng lên thân thể; nếu như tâm niệm an hoà tĩnh tại, thần thanh khí sảng,
cái nhìn rộng mở, lỗi lạc quang minh, thì sẽ khiến khí huyết hài hoà, ngũ tạng
an định, công năng chính thường, thân thể khoẻ mạnh, ắt sẽ thể hiện ra mặt mũi
sáng sủa, thần thái bay bổng; ai gặp mặt cũng cảm thấy thoải mái, cảm thấy thân
thiện an hoà một cách tự nhiên.
Có
thể nhìn nhận quan hệ giữa tướng và tâm như thế này: “tướng” là bề mặt, là biểu
hiện bên ngoài; “tâm” là bên trong, là hoạt động bên trong; “tướng” là hư cấu bất
thực, ở trạng thái bị động, là phản ánh ra ngoài của “tâm”; “tâm” thế nào thì
“tướng” thế nấy; “tướng” là tuỳ theo “tâm” biến hoá mà biến hoá theo, cũng gọi
là “cảnh tuỳ tâm chuyển”, “tướng tuỳ tâm thiên” (cảnh thay đổi theo tâm, tướng
thiên di theo tâm). Cũng có thể coi “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của
“tâm” (theo quan hệ nhân-quả).
Nếu
bản thân một cá nhân không làm chủ tể nổi tâm của chính mình, thì bị sẽ bị động
theo ảnh hưởng và lôi kéo của hoàn cảnh bên ngoài, chính đã là “tâm tuỳ cảnh
thiên” (tâm chạy theo cảnh) rồi. Nếu có thể làm được bất động tâm, thế thì,
chính là đã chế ước được ngoại cảnh không cho phát sinh biến hoá; cho nên, Phật
Thích Ca Mâu Ni từng giảng: “Thế gian vạn vật giai thị hoá tướng, tâm bất động,
vạn vật giai bất động, tâm bất động, vạn vật giai bất biến” (Vạn vật thế gian đều
cái tướng được biến hoá ra, tâm bất động, vạn vật sẽ đều bất đông, tâm bất động,
vạn vật sẽ đều bất biến).
Vì
vậy mới có thể nói, dẫu hoàn cảnh có hiển tướng thế nào đi nữa, thì đều là
“tâm” mình quyết định; “tướng” là bóng ảnh bên này của “tâm”. Làm người thì nên
có tâm cảnh thế nào? Tuân Tử viết: “tướng hình bất như tướng tâm, luận tâm bất
như luận đức”. Cuốn «Thái Thanh Thần Giám» —cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất
trong thuật xem tướng thời xưa— có luận về đức thế này: “vi đức chi tiên, vi
hành chi biểu” (lấy đức làm đầu, lấy hành vi làm biểu đạt), “đức tại hình tiên,
hình cư đức hậu” (đức có trước hình, hình ở sau đức), “khứ nghiệp tùng Thiện,
tiêu tai tỵ hung” (trừ nghiệp hành thiện, tiêu tai giải nạn), cũng rất có đạo
lý vậy.
Nhận xét
Đăng nhận xét