Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quản lý nợ công ở Việt Nam

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/15676



Theo Quyết định số 958/QĐ- TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030, chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau: Nợ công đến nám 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu NSNN hàng năm dưới 25% giá trị XK hàng hóa và dịch vụ; tỷ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%. 


Như vậy Việt Nam được đánh giá là có mức nợ năm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm các nước có gánh nặng về nợ (HIPCs). Nợ Việt Nam đã giảm nhiều nếu so sánh tỷ lệ nợ với GDP: Đã xử lý giảm nợ thành công qua Câu lạc bộ Paris, Luân Đôn. Tỷ lệ nợ nước ngoài năm 1993 là gần 150% GDP về còn 42,2% GDP năm 2010 và 54,9% GDP năm 2011, đến nám 2012 còn 55,6% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn tương ứng từ mức 195,8% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1993 xuống còn khoảng 3,4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010.
Các chỉ số nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn đang ở dưới ngưỡng an toàn (Nợ công 2012 so với GDP: 55,4%, Nợ Chính phủ so với GDP: 43,1%, Nợ nước ngoài quốc gia so với GDP: 43,7%), tuy nhiên trong thời gian tới các chỉ số nợ có xu hướng gia tăng do sự gia tăng nguồn vốn vay để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; do sự gia tăng các khoán bảo lãnh Chính phủ; do tăng chi trả nợ trực tiếp cũng như nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước, bởi tăng chi phí phát sinh từ rủi ro đối với việc tái cấp vốn cho thị trường vốn trong nước, tăng chi phí huy động vốn.
Khuyến nghị của IMF đối với các nước như Việt Nam: nợ nước ngoài quốc gia nên ở mức 50% GDP, dựa trên cơ sở IMF xếp chúng ta vào các nước có khuôn khổ chính sách tương đối tốt, môi trường chính trị ổn định.
Về chiến lược nợ, trước đây chúng ta quản lý nợ mang tính thụ động thì giờ chúng ta đã chủ động, đã có Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tất nhiên, chiến lược của này sẽ điều chỉnh theo từng thời kỳ.


Title: Chính sách quản lý nợ công ở Việt Nam
Other Titles: Public debt management policy in Vietnam
Authors: Nguyễn, Thị Hoài Thu
Keywords: Quản lý;Nợ công;Việt Nam
Issue Date: 2016
Publisher: Đại học quốc gia Hà Nội
Citation: 88 tr.
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/15676
Appears in Collections:Luận văn - Luận án (LIC)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong v...

Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36998 Keywords Xác suất, Thống kê toán học, Toán tử ngẫu nhiên, Không gian Banach Citation Trần, M. C. (2011). Thác triển khai toán tử ngẫu nhiên trong không gian banach khả ly. Luận án Tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Publisher Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Appears in Collections: HUS - Dissertations

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...