Chuyển đến nội dung chính

Những rào cản chất lượng học tập của trẻ khuyết tật ở Việt Nam

http://repository.vnu.edu.vn/handle/11126/14574

Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về các rào cản trẻ khuyết tật (TKT) đến trường và những rào cản TKT học có chất lượng trong các cơ sở giáo dục phổ thông ở Việt Nam.


Những rào cản TKT đến trường bao gồm nhận thức của cha mẹ hạn chế, gia đình khó khăn, hoặc do công tác tuyên truyền, vận động của địa phương, đặc biệt TKT còn có thể bị từ chối được vào học ở các cơ sở giáo dục dưới các hình thức khác nhau. Tỉ lệ TKT học tiếp lên THCS còn rất thấp.
Những rào cản TKT học có chất lượng là chưa đánh giá đúng loại và mức độ khuyết tật, cũng như chưa xác định được điểm mạnh, nhu cầu của TKT để xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân sát thực.
GV dạy TKT như dạy HS yếu kém, mà chưa biết cách dạy phù hợp với đặc điểm của từng loại tật, trong khi đó thiếu các trang, thiết bị, phương tiện dạy học đặc thù, điều kiện CSVC chưa được cải thiện cho phù hợp với HSKT.
Môi trường tâm lí xã hội cũng chưa thực sự thân thiện với TKT. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình lỏng lẻo nên hạn chế hiệu quả giáo dục.
Trên cơ sở những phát hiện đó, bài viết đề xuất các biện pháp đối với các cấp quản lí giáo dục và hướng ứng dụng CNTT nhằm giảm thiểu những rào cản chất lượng giáo dục TKT..

Title: 
Những rào cản chất lượng học tập của trẻ khuyết tật ở Việt Nam
Authors: 
Issue Date: 
2013
Publisher: 
H. : ĐHQGHN
Citation: 
8 tr.
Abstract: 
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về các rào cản trẻ khuyết tật (TKT) đến trường và những rào cản TKT học có chất lượng trong các cơ sở giáo dục phổ thông ở Việt Nam. Những rào cản TKT đến trường bao gồm nhận thức của cha mẹ hạn chế, gia đình khó khăn, hoặc do công tác tuyên truyền, vận động của địa phương, đặc biệt TKT còn có thể bị từ chối được vào học ở các cơ sở giáo dục dưới các hình thức khác nhau. Tỉ lệ TKT học tiếp lên THCS còn rất thấp. Những rào cản TKT học có chất lượng là chưa đánh giá đúng loại và mức độ khuyết tật, cũng như chưa xác định được điểm mạnh, nhu cầu của TKT để xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân sát thực. GV dạy TKT như dạy HS yếu kém, mà chưa biết cách dạy phù hợp với đặc điểm của từng loại tật, trong khi đó thiếu các trang, thiết bị, phương tiện dạy học đặc thù, điều kiện CSVC chưa được cải thiện cho phù hợp với HSKT. Môi trường tâm lí xã hội cũng chưa thực sự thân thiện với TKT. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình lỏng lẻo nên hạn chế hiệu quả giáo dục. Trên cơ sở những phát hiện đó, bài viết đề xuất các biện pháp đối với các cấp quản lí giáo dục và hướng ứng dụng CNTT nhằm giảm thiểu những rào cản chất lượng giáo dục TKT..
URI: 
Appears in Collections:


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Mời các bạn quan tâm tìm hiểu luận văn “Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” của tác giả Hoàng Thị Hồng Nga tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19976 Luận văn bao gồm các nội dung sau - Tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế (ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc) và trong nước (đời sống kháng chiến, đời sống văn hóa) tới quá trình xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân dân trong thời kỳ đất nước có chiến tranh.  - Phân tích và làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến như: tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) (2/9/1945 - 7/1948); từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến – kiến quốc (7/1948 - 1954); xây dựng thiết chế văn hóa trong các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định được những đóng góp to lớn của Đảng, cũng như giới văn hóa, nghệ sĩ trong v...

Vấn đề kết hôn của phụ nữ Việt Nam với nam giới Đài Loan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam gia nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực. Bài viết này đề cập cụ thể tới hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan. Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thµnh phè Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế -Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có ...

The hit problem for the Dickson algebra

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/32051   In mathematics, the Cayley–Dickson construction, named after Arthur Cayley and Leonard Eugene Dickson, produces a sequence of algebras over the field of real numbers, each with twice the dimension of the previous one. The algebras produced by this process are known as Cayley–Dickson algebras. They are useful composition algebras frequently applied in mathematical physics. The Cayley–Dickson construction defines a new algebra similar to the direct sum of an algebra with itself, with multiplication defined in a specific way (different from the multiplication provided by the genuine direct sum) and an involution known as conjugation. The product of an element and its conjugate (or sometimes the square root of this product) is called the norm. The symmetries of the real field disappear as the Cayley–Dickson construction is repeatedly applied: first losing order, then commutativity of multiplication, associativity of ...